Tổng quan:
Bệnh Zona trong tiếng Anh là Shingles có xuất xứ từ tiếng Latin và Pháp có nghĩa là dây đai, thắt lưng, phản ánh đúng tính chất phân bố của các dải phát ban. Các dải này thường là chỉ ở 1 bên của cơ thể và ở khu vực chi phối của 1 dây thần kinh cảm giác đơn độc.
Khi hệ thống miễn dịch suy yếu, virus có thể “thức dậy” di chuyển dọc theo các dây thần kinh cảm giác ở da và tạo nha những nốt hoặc mảng ban gây đau. Thời gian “không hoạt động” của virus có thể kéo dài đến hàng chục năm và thông thường ở cơ địa những người lớn tuổi có hệ thống miễn dịch giảm hơn so với bình thường thì virus mới có khả năng thức dậy hoạt động.
1. Nguyên nhân
- Mệt mỏi.
- Hệ miễn dịch suy yếu (có thể là do tuổi tác, bệnh tật, thuốc men làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể để có thể giữ được virus thủy đậu trong trạng thái bất hoạt).
- Ung thư.
- Các biện pháp điều trị bằng tia xạ.
- Làm tổn thương vùng da bị nổi ban.
2. Triệu chứng
Tùy thuộc vào dây thần kinh nào bị ảnh hưởng, bệnh Zona có thể xuất hiện ở nhiều khu vực khác nhau trong cơ thể:
- Triệu chứng đầu tiên của Zona thường là tăng cảm giác da hoặc cảm giác đau ở 1 phía của cơ thể. Những cảm giác da có thể gặp là ngứa, căng, bỏng, nhức dai dẳng hoặc đau sâu, đau nhói.
- Thông thường thì sau khi cơn đau xuất hiện được 1-3 ngày các dải ban sẽ nổi lên, tấy đỏ, phồng lên ở ngay vị trí đau. Sau đó nó sẽ tụ mủ và đóng vảy trong 10-12 ngày. 2-3 tuần sau, ban sẽ biến mất và vảy rơi ra và có thể để lại sẹo.
- Trước khi tổn thương mọc 2-3 ngày thường có cảm giác báo hiệu như: rát dấm dứt, đau vùng sắp mọc tổn thương kèm theo triệu chứng toàn thân ít hoặc nhiều như: mệt mỏi, đau đầu… Hạch ngoại vi lân cận có thể sưng và đau.
- Vị trí : Thường khu trú tập trung ở những vị trí đặc biệt và chỉ có một bên của cơ thể thành một khoanh dọc theo các đường dây thần kinh chi phối như trán-quanh mắt-đầu, hoặc cổ -vai- cánh tay, liên sườn một bên từ ngực vòng ra sau lưng, hoặc dọc từ hông xuống đùi, nhưng cá biệt có thể bị cả hai bên hay lan toả.
- Tổn thương cơ bản: thường bắt đầu là các mảng đỏ, nề nhẹ, gờ cao hơn mặt da, hình tròn, bầu dục lần lượt nổi dọc dây thần kinh, rải rác hoặc cụm lại thành dải, thành vệt, sau 1-2 giờ trên mảng đỏ xuất hiện những mụn nước chứa dịch trong, căng khó vỡ, các mụn nước tập trung thành cụm ( như chùm nho), về sau đục, vỡ ra thành vết loét chợt ướt, dần đóng vẩy tiết sau lành để lại sẹo.Từ khi bắt đầu mọc đến khi lành sẹo khoảng 20-30 ngày.
- Đau rát vùng nổi tổn thương, có khi đau từ trước khi nổi tổn thương làm bệnh nhân đi khám chuyên khoa thần kinh, đau nhức kiểu bỏng buốt, đau do viêm dây thần kinh cảm giác do VZV gây nên, ở người trên 50 tuổi thường bị đau nhiều và đau kéo dài, khỏi tổn thương ngoài da còn đau kéo dài nhiều tháng, hàng năm sau.
- Trước hoặc cùng với mọc tổn thương ở da thường sốt nhẹ, hạch vùng lân cận sưng và đau ở vùng tương ứng.
3. Lâm sàng và cận lâm sàng
Kiểu đau kinh điển, vết phồng nổi lên thành 1 dải ở 1 bên của cơ thể là tất cả những dấu hiệu cần thiết đủ để bác sĩ chẩn đoán bạn đã bị nhiễm Herpes Zoster. Ban có thể lan ra ngoài dải này hoặc hiếm gặp hơn là lan sang phía bên kia của cơ thể. Đôi khi bệnh nhân chỉ đau theo 1 dải mà không thấy nổi ban.
Có thể bác sĩ sẽ quyết định làm xét nghiệm để xác định xem bạn có bị Zona hay không. Tuy nhiên, những xét nghiệm này không phải lúc nào cũng cần thiết.
- Phết Tzanck: Hiện nay ít được sử dụng hơn trước do những kỹ thuật mới đã xuất hiện, người ta rạch vết phồng và lấy dịch cùng với các tế bào da trong đó đặt lên slide. Sau đó nhuộm màu bằng 1 loại thuốc nhuộm đặc biệt rồi đưa lên kính hiển vi để tìm những biến đổi của tế bào gây ra bởi virus. Phương pháp này không thể giúp phân biệt được giữa VZV và Herpes Simplex Virus (HSV), tuy nhiên VZV gây bệnh zona và thủy đậu còn HSV gây ra bệnh Herpes simplex (đôi khi thường được biết đến bằng cái tên Herpes môi hoặc Herpes sinh dục).
- Cấy virus hoặc test kháng thể đặc biệt, như DFA (direct fluorescent antibody – kháng thể huỳnh quang trực tiếp), trong sang thương có thể xác định được VZV. DFA thường cho kết quả sau 1 giờ. Xét nghiệm này có thể giúp phân biệt được giữa VZV và HSV. Cấy virus có thể cho kết quả sau 2 tuần hoặc hơn.
- Sinh thiết da: lấy một mẩu da ở sang thương và xem xét chúng dưới kính hiển vi. Có thể dùng mô sinh thiết để cấy nếu không có mẩu sang thương nguyên vẹn. Ngoài ra người ta còn có thể dùng PCR (polymerase chain reaction) để phát hiện ra DNA của virus trong mẫu mô được sinh thiết.
4. Các biến chứng của bệnh Zona
Thường thì bệnh Zona được chữa khỏi, và bệnh zona cũng có một số vấn đề. Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó, mụn nước có thể bị nhiễm thêm một loại vi trùng sẽ gây ra viêm mô tế bào, đây là bệnh nhiễm trùng da. Nếu nhiễm trùng da xảy ra, vùng da trở nên đỏ hơn, nóng, sưng bóng lên và rất đau.
Bạn cũng có thể thấy vệt màu đỏ xung quanh vết thương. Nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào trong số đó, bạn hãy liên hệ đến bác sĩ của bạn để được chăm sóc. Kháng sinh có thể được sử dụng để điều trị trong những trường hợp này.
Một biến chứng nữa cũng làm cho người bệnh lo lắng là khi bị zona ở mặt, đặc biệt ở trán và mũi. Trong những trường hợp này, Zona có thể làm giảm thị lực. Nếu bạn bị zona ở trán hay ở mũi thì bạn cũng cần được chăm sóc y tế.
5. Điều trị
Tùy thuộc vào giai đoạn, mức độ thể trạng người bệnh mà dùng thuốc cho thích hợp.
- Tại chỗ : Giai đoạn cấp : hồ nước, dung dịch thuốc màu như dung dịch xanh methylen 1%; dung dịch Castellani , tím metyl 1% , mỡ acyclovir.
Mỡ kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn…
- Toàn thân : Thuốc kháng virus Acyclovir 200mg x 5 viên / ngày x 7 ngày,cách 4 giờ uống 1 viên (có khi dùng liều cao 800mg x 4 lần /ngày 1 đợt 7-10 ngày).
- Kháng sinh chống bội nhiễm.
- Giảm đau, kháng viêm, an thần như Efferalgan,seduxen, nhóm Diazepam đặc biệt Neurontin 300mg ( gabapentin) thường dùng lúc đầu 1 viên/ngày sau có thể tăng lên 2 viên/ngày.
- Sinh tố nhóm B liều cao.
- Nếu đau dai dẳng có thể bôi kem EMLA,kem capsaicin,lidocain gel, uống thuốc chống trầm cảm ba vòng, phóng bế thần kinh và vật lý trị liệu kết hợp.
6. Tiên lượng
Đa số các trường hợp bị Zona đều tự khỏi có thể có điều trị hoặc không. Ban và đau có thể khỏi sau từ 2 đến 3 tuần. Tuy nhiên, bệnh có thể kéo dài lâu hơi và thậm chí là tái phát ở người lớn tuổi, đặc biệt là trên 50 tuổi, hoặc có bệnh trầm trọng.
Có thể những cơn đau vẫn còn tiếp diễn sau khi sang thương biến mất. Những cơn đau này được gọi là PHN. Thường gặp ở người lớn tuổi, và có thể là rất nặng nề.
Những biến chứng khác có thể gặp là nhiễm trùng da, nhiễm trùng lây lan đến những cơ quan nội tạng hoặc làm tổn thương mắt. Thường để lại sẹo.
7. Phòng bệnh
Biện pháp hiệu quả nhất để phòng bệnh là tiêm phòng vaccine, giúp ngăn ngừa đến 90% nguy cơ mắc và biến chứng của bệnh. Ngay cả khi đã mắc bệnh Zona thần kinh, tiêm phòng vẫn ngăn ngừa bệnh tái phát tốt.
Tuy nhiên các đối tượng sau đây không phù hợp với biện pháp tiêm phòng như:
- Có tiền sử dị ứng với vaccine;
- Phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú;
- Người có hệ miễn dịch yếu;
- Người vừa khỏi bệnh Zona thần kinh hoặc thủy đậu.
- Những đối tượng không thể tiêm phòng vacxin cần được theo dõi sức khỏe, tăng cường hệ miễn dịch và sức khỏe bằng cách tập thể dục đều đặn, ăn uống khoa học, nghỉ ngơi hợp lý.
Khi thấy xuất hiện những biểu hiện sớm của bệnh zona hãy đi khám để được điều trị. Điều trị sớm có thể giúp bệnh zona thần kinh khỏi nhanh hơn và hạn chế, tránh các vấn đề liên quan đến biến chứng của bệnh như: các vấn đề về thính giác, thị giác thậm chí là mù lòa… Vì vậy, với những bệnh nhân yếu, người cao tuổi, phụ nữ có thai có hệ thống miễn dịch yếu và chưa tiêm chủng, phát hiện và điều trị sớm là cách bảo vệ tốt nhất chống lại bệnh Zona thần kinh.